Zippo Set là gì?
Zippo Set chính là Zippo theo một bộ, hay còn gọi là một set, một SET có thể có 2 chiếc bật lửa trở lên nằm trong một hộp nhưng cũng có thể riêng lẻ từng hộp riêng nhưng tất nhiên chúng có cùng chung một chủ đề, một phong cách. Một số set điển hình như Zippo D-Day 40th Anniversary (Zippo kỉ niệm 40 năm D-Day, chiến thắng phát xít Đức) có 4 chiếc khắc chân dung 4 người tướng lĩnh phe Đồng minh trong cuộc chiến hay bộ Zippo Bí Ẩn Rừng Xanh (Mysteries Of The Forest Zippo Set) cũng gồm 4 chiếc ốp men nổi khi ghép lại ra diện mạo con báo gấm đựng chung một hộp, ngoài ra còn có 1 chiếc rời là hình tổng thể của 4 chiếc kia khi ghép lại.
Tổng hợp các Set Zippo theo chủ đề
1. Set Zippo Agnew Lights Tribal
Set zippo này là sự kết hợp thành công của Bradford Exchange và Al Agnew (sinh năm 1952 – là nghệ sĩ vẽ động vật hoang dã nổi tiếng) khắc họa được hình ảnh vẻ đẹp bí ẩn của những chú sói hùng mãnh kết hợp với bật lửa Zippo.
Với giới hạn 8000 bản trên toàn thế giới, ý tưởng được châm ngòi từ chương trình “dự án phục hồi sói” bảo vê động vật ở các quốc gia hoang dã Thổ Nhĩ Kỳ, Black Bass Foundation,… Đây được đánh giá là 1 SET đẹp của giới sưu tầm Zippo, về độ thẩm mỹ và cực kì ý nghĩa.
Ghi nhận cho chủ nghĩa hiện thực và chi tiết ông mang đến đối tượng của mình, tranh động vật ăn thịt ở Bắc Mỹ, đặc biệt là chó sói, Agnew đã có mặt trên trang bìa của hơn 75 Bass Pro Shop catalog và nghệ thuật của ông đã xuất hiện trên nhiều tạp chí động vật hoang dã bao gồm bao gồm cả cuộc sống ngoài trời, Field & Stream, Sporting Classics, và cá và game số những người khác.
2. Set Zippo Farmall
Farmall là một tên mô hình và sau đó là một thương hiệu cho máy kéo sản xuất bởi công ty American International Harvester(IH). Tên Farmall thường được trình bày như McCormick-Deering Farmall và sau đó là McCormick Farmall trong kiến trúc thương hiệu đang phát triển của IH.
Farmalls là những máy kéo dùng cho mục đích chung. Nguồn gốc của chúng là máy kéo cây trồng hàng loạt, một loại sản phẩm đã giúp họ thành lập và nắm giữ một thị phần lớn trong đó. Trong nhiều thập kỉ sản xuất Farmall (những năm 1920 đến 1970), hầu hết các trang trại Farmalls được xây dựng cho công việc trồng cây hàng tuần, nhưng nhiều vườn lan, đường cao tốc và các biến thể khác cũng được xây dựng.
Hầu hết các trang trại Farmall đều là những máy kéo đa dụng cho các trang trại quy mô vừa và nhỏ và có thể làm đủ các công việc cần thiết cho trang trại khi mà nhu cầu cần thuê tay đã giảm và cần phải loại bỏ ngựa hoặc con la. Do đó Farmall là một thương hiệu nổi bật trong xu hướng thế kỷ 20 hướng tới việc cơ giới hóa nông nghiệp ở Mỹ.
3. Set Zippo Frank Mccarthy Native American
Frank McCarthy (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1924 – 17 tháng 11 năm 2002) là một họa sĩ người Mỹ và họa sĩ hiện thực nổi tiếng với các quảng cáo, tác phẩm tạp chí, bìa sách bìa mềm, áp phích điện ảnh, và các bức tranh của miền Tây nước Mỹ.
Set zippo lấy cảm hứng từ cái nhìn sâu sắc của ông để miêu tả lại nét phong trần hoang dã của người MỸ, chiến binh dũng cảm miền Tây Mỹ
4. Set Zippo John Wayne Art
ĐÂY là set Zippo giới hạn 10.000 bản – dành cho các fan hậm mộ của diễn viên John Wayne với sự khăc họa lai hình tượng chàng cao bồi Mỹ cưỡi ngựa và sau lưng là thung lũng Monument.
Đây được xem là một trong những biểu tượng quen thuộc khi nói về nước Mỹ (miền Tây hoang dã).
John Wayne (1907 – 1979), tên đầy đủ là Marion Mitchell Morrison, (biệt danh Duke) được xem là một trong những huyền thoại phim Viễn Tây Hoa Kỳ.
Ông góp mặt trong khoảng trên 150 phim lớn nhỏ, trong đó có 9 phim của đạo diễn kỳ cựu John Ford.
Wayne được xem là biểu tượng chuẩn mực lâu dài của nước Mỹ, với gương mặt nam tính, vóc dáng rắn rỏi, giọng nói cực kỳ bình tĩnh và ấn tượng.
Ông sinh ra ở Winterset, Iowa nhưng gia đình chuyển đến Los Angeles khi 4 tuổi. Wayne bắt đầu làm việc tại các hãng phim địa phương khi ông mất suất học bổng bóng đá do một tai nạn lướt sóng.
Vai chính đầu tiên của ông là trong phim The Big Trail (1930). Sự nghiệp của Wayne tiếp tục thăng hoa khi ông góp mặt vào Stage Coach của Ford.
Có thể kể ra đây một vài bộ phim nổi tiếng của ông như: The Quiet Man (1952), The Searchers (1956), Rio Bravo (1959), The Man Who Shot Liberty Valance (1962), True Grit (1969), The Shootist (1976),…
Wayne từng 3 lần được đề cử giải Oscar ở vai trò diễn viên, nhà sản xuất, và chiến thắng năm 1969 với True Grit.
Ông qua đời vì bệnh ung thư dạ dày. Tháng 6/1999, Viện phim Mỹ xếp Wayne đứng hạng thứ 13 trong số các diễn viên nam vĩ đại nhất mọi thời đại.
5. Set Zippo Let Freedom Light The Way
Khi vẻ đẹp hùng vĩ của Mỹ Bald Eagle kết hợp với những lý tưởng yêu nước của nghệ sĩ huyền thoại người Mỹ Ted Blaylock với khẩu hiệu: Hãy Tự do.
Chủ đề này luôn được thực hiện ở Mỹ và luôn luôn được zippo chế tác, các bật lửa Bald Eagle – thể hiện sự yêu nước trong bộ sưu tập này là bức tranh hoàn hảo,là 1 tác phẩm nghệ thuật mang lý tưởng Mỹ được đặc trưng bằng những chữ vàng để tôn vinh những gì đã làm cho đất nước vĩ đại này.
Giới hạn: 8000 SET.
6. Zippo Set Corvette 40th Anniversary
Zippo Set Corvette 40th Anniversary là bộ sưu tập Nguyên mẫu xe cơ bắp thể thao của Mỹ được ra đời được ra đời vào ngày 26 tháng 9 năm 1966, đến nay trải qua nửa thế kỷ, Chevrolet Camaro đã trở thành một trong những chiếc xe thể thao Mỹ mang tính biểu tượng trên toàn Thế giới.
Đây là set theo đơn đặt hàng của Cheverolet với cty zippo Để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 40 của mình, được biết hãng xe Chevrolet đã công bố phiên bản Camaro 50th Anniversary Edition có trên cả hai mẫu Coupe 2 chỗ và Convertible mui trần.
7. Set Zippo Vespa
Là SET được hãng zippo sản xuất theo đơn đặt hàng của hãng Piaggio (không biết tại sao hai bên của khay Zippo lại có hai chỗ để trống,theo ý kiến của một số Seller thì đây là bản bán cho các thành viên được ưu tiên tấm thẻ nhựa đặt vào vị trí đó – khá hiếm).
Vespa là thương hiệu của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp bánh nhỏ (scooter) của hãng Piaggio, Ý. Dòng xe này ra đời từ sau Thế chiến thứ hai và ngày nay nó vẫn tiếp tục được sản xuất cũng như cải tiến.
Sau Thế chiến thứ hai, các nhà máy của Piaggio, vốn được biết đến như hãng sản xuất máy bay chiến đấu cho quân đội Ý, phải ngừng công việc liên quan đến khí tài và đứng trước nguy cơ đóng cửa.
Cùng lúc đó, do hậu quả của việc thua trận, đời sống của người Ý trở nên thiếu thốn, phương tiện giao thông chủ yếu là xe đạp vì giá xăng dầu đắt đỏ và đường giao thông bị tàn phá.
Nắm bắt được nhu cầu về một loại phương tiện giao thông thuận tiện và tiết kiệm, ông chủ của hãng Piaggio lúc đó là Enrico Piaggio đã đề ra hướng đi mới cho các nhà máy và công nhân của mình: Chuyển từ sản xuất phục vụ quân sự sang phục vụ dân sự.
Năm 1884, Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio tại Genoa với tên là “Piaggio &C”. Địa điểm nhà máy của công ty được đặt tại Sestri Ponente với chức năng chuyên sản xuất các trang thiết bị cho tàu thuỷ.
Sau đó, Rinaldo đã mở rộng sang hướng sản xuất các trang thiết bị cho tàu hoả, máy bay và mở thêm một nhà máy mới tại Finale Ligure.
Năm 1917, Rinaldo đã mở rộng hoạt động của Piaggio tại vùng Tuscany với nhà máy đặt tại Pisa năm 1917 và tại Pontedera năm 1924.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, Piaggio là một trong những hãng sản xuất máy bay, xe lửa, tàu thuỷ hơi nước, tàu thuỷ vượt Đại Tây Dương quan trọng của châu Âu.
Năm 1920, Rinaldo Piaggio đã hợp nhất các nhà máy ở Sestri, Finale & Pisa thành Hãng Piaggio.
Năm 1938, Rinaldo Piaggio qua đời và đã để lại toàn bộ gia sản của nhà máy tại Finale & Sestri cho người con trai cả là Armando Piaggio (1901-1978) quản lý.
Còn nhà máy, tại Pisa và Pontedera ở vùng Tuscany gần như bị chiến tranh thế giới thứ 2 phá hủy hoàn toàn, được Rinaldo trao lại cho người con thứ Enrico Piaggio (1905-1965) điều hành.
Khi điều hành nhà máy, Enrico Piaggio đã nảy ra một ý tướng sản xuất một loại phương tiện đi lại rẻ hơn, thuận tiện hơn và ai cũng có thể dùng được nhưng phải bảo vệ được người lái và giữ cho người lái luôn sạch sẽ khi trời mưa…
Để thực hiện được ý tưởng của mình, Enrico Piaggio đã cùng kỹ sư tài năng, người đã thiết kế chiếc máy bay trực thăng đầu tiên – Corrandino D’Ascanio – thiết kế nên chiếc xe scooter huyền thoại – Vespa.
Vespa được coi là biểu tượng của thời kỳ tái thiết sau chiến tranh của Italy bởi vì nó được thiết kế dựa trên những phế tích còn lại của cuộc chiến tranh thế giới thứ II.
Năm 1946, những chiếc xe đầu tiên của dòng sản phẩm này được thiết kế bởi kỹ sư Corradino D’Ascanio và được sản xuất tại nhà máy chính của Piaggio tại Pontedera, Ý.
Enrico Piaggio rất ấn tượng với kiểu dáng được vuốt tròn của khung và tiếng nổ khác biệt của động cơ xe nên đã nói: “Sembra una vespa!” (Nó cứ như con ong ấy). Chính câu nói này của ông mà kiểu xe mới được đặt tên là Vespa.
Năm 1948 là năm ra đời của chiếc xe ba bánh Ape đầu tiên. Ape đã giúp cho hoạt động thương mại của Italy khởi sắc trong thời kỳ hậu chiến.
Kế đó, năm 1949 Piaggio đã cho xuất xưởng chiếc thuyền máy nhỏ Moscone và chiếc Vespa 400 vào năm 1957.
Năm 1964, hãng Piaggio được tách ra thành I.A.M Rinaldo Piaggio chuyên sản xuất sản phẩm phục vụ cho ngành hàng không và tàu hoả và Piaggio & C. chuyên sản xuất xe máy bánh nhỏ (scooter).
Năm 1965, Enrico Piaggio qua đời và để lại hãng Piaggio & C. cho người con rể Umberto Agnelli làm chủ tịch.Umberto Agnelli đã điều hành rất thành công nhà máy và cho ra đời chiếc xe đạp máy – Moped: Ciao vào năm 1967 và Bravo, Si vào giữa những năm 70 cùng hàng loạt những model mới hàng năm.
Những năm 90, Piaggio & C. được cổ phần hoá và được đổi tên thành Piaggio V.E. do Giovanni Alberto Agnelli làm chủ tịch.
Từ đầu năm 2000, việc kiểm soát của công ty đã được chuyển giao cho tập đoàn tài chính Morgan Grenfell Private Equity (công ty thành viên của tập đoàn Deutsche Bank). Dante Razzano trở thành chủ tịch của Piaggio từ tháng 5 năm 2001.
Ngoài thương hiệu Piaggio ra, tập đoàn còn sở hữu các thương hiệu: Gilera (xe máy bánh nhỏ và xe mô tô), Vespa (xe máy bánh nhỏ), Derbi (xe máy bánh nhỏ và xe máy bánh lớn) và Puch (xe máy bánh nhỏ).
Bên cạnh đó, Piaggio còn là nhà sản xuất và cung cấp động cơ xe máy cho rất nhiều hãng xe máy trên thế giới từ những loại động cơ 50cc đến 1.000cc.
Hơn thế nữa, vào ngày 24 tháng 7 năm 2001, một thoả thuận đã được ký kết, trong đó Piaggio nắm giữ 20% cổ phần của MV Agusta của Schiranna (Varese). Tập đoàn MV Agusta nổi tiếng với các nhãn hiệu MV, Husqvarna và Cagiva.
Tháng 10 năm 2003, Piaggio & C. S.p.A. chính thức chuyển giao sự quản lý cho Immsi Holding Co. với chủ tịch mới là – Ông Roberto Colaninno – cựu chủ tịch tập đoàn viễn thông Italy.
8. Set Zippo Amerigo Vespucci
Amerigo Vespucci (sinh 9 tháng 3 năm 1454 – mất 22 tháng 2 năm 1512) là một nhà buôn, nhà thám hiểm và người vẽ bản đồ người Ý.
Ông giữ vai trò chính trong hai cuộc thám hiểm vùng bờ biển phía đông của Nam Mỹ từ 1499 đến 1502.
Trong chuyến thám hiểm thứ hai, ông phát hiện ra rằng Nam Mỹ mở rộng về phía nam hơn là những kiến thức người châu Âu đã biết.
Điều đó làm ông tin rừng vùng đất này là một lục địa mới, một luận điểm dũng cảm vào thời điểm đó, khi các nhà thám hiểm châu Âu vượt qua Đại Tây Dương đều cho rằng họ đã tới được châu Á (hay Ấn Độ, theo cách gọi của người thời đó). Những chuyến thám hiểm của Vespucci được biết đến rộng rãi ở châu Âu sau khi hai báo cáo được xem là của ông được xuất bản từ năm 1502 đến 1504.
Năm 1507, Martin Waldseemüller vẽ một bản đồ thế giới, trong đó ông đặt tên cho lục địa mới là “America” (châu Mỹ), lấy theo tên của Vespucci là Amerigo. Trong cuốn sách đi kèm, Waldseemüller in một báo cáo của Vespucci, đã dẫn tới sự chỉ trích rằng Vespucci đã tìm cách chiếm đoạt danh tiếng của Cristoforo Colombo.
Tuy nhiên, những nghiên cứu sau này ở thế kỉ 18 về những bức thư, tài liệu khác của Vespucci cho thấy rằng những báo cáo xuất bản lần đầu đã bị nguỵ tạo, nhưng không phải của Vespucci mà của người khác.Có thể coi Vespucci là người phát hiện ra Châu Mĩ
ZIPPO AMERIGO VESPUCCI khắc họa lại hình ảnh con tàu Amerigo Vespucci nổi tiếng trong lịch sử thế giới
Tàu đc đưa mắt vào ngày 22 Tháng 2 năm 1931, và đưa vào phục vụ vào tháng Bảy năm đó.
Con tàu này là một đầy đủ lận ba cột buồm thép thân 82,4 m (270,34 ft), với tổng chiều dài 101 m (331 ft) bao gồm bowsprit và chiều rộng tối đa 15,5 m (51 ft). trước đó con tàu đã đc dự thảo khoảng bảy mét (23 ft) và dịch chuyển khi đầy tải của 4146 tấn.
Theo cơ đẩy diesel-điện phụ trợ của Amerigo Vespucci có thể đạt 10 hải lý (19 km / h) và có tầm 5450 nm 6,5 hải lý.
Ba thép cột buồm cao 50, 54 và 43 mét, và mang theo những cánh buồm tổng cộng 2.824 m² (30.400 ft²).Thuyền có 26 cánh buồm – cánh buồm vuông Khi điều kiện biển và gió nghiêm trọng thuyền có thể đạt 12 hải lý (22 km / h).
Giàn khoan, khoảng 30 km của sợi dây thừng, chỉ sử dụng truyền thống cây gai dầu dây thừng; chỉ neo dòng là tổng hợp, tuân thủ các quy định cổng. Các thân tàu được sơn màu đen với hai sọc trắng. Bow và đuôi tàu được trang trí với đồ trang trí phức tạp.
Hiện nay, tàu đã đưa vào làm tàu huấn luyện của Ý, và là 1 trong những biểu tượng của thánh phố LA SPEZIA (Ý) – vùng đất du lịch mang đậm những câu truyện đầy màu sắc huyền thoại,bí ấn và lãng mạn. Đôi nét về tên gọi chiếc thuyền: thuyền được đặt theo tên của Amerigo Vespucci.
9. Set Zippo Seven Wonders Of Ancient World Limited Edition 1000
Zippo Seven Wonders Of Ancient World Limited Edition 1000 là một bộ Zippo phiên bản giới hạn có đề tài về 7 kỳ quan thế giới cổ đại (Tập trung chủ yếu ở vùng văn minh Lưỡng Hà và các nước ven Địa Trung Hải).
Set bao gồm 1 máy chủ làm trên chất liệu solid brass có gắn emblem khắc họa vị trí tương đối của 7 kỳ quan trên bản đồ. Và 7 máy vệ tinh làm trên chất liệu chrome có gắn emblem tái hiện hình ảnh về các kỳ quan trên.
SET trong tình trạng Full box (theo quan niệm của giới sưu tập phương Tây thì set số càng nhỏ thì càng có quý).
– ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD: COLOSSUS OF RHODES : Tượng thần mặt trời ở Rhodes (đảo Rhodes/ Hy Lạp)
– ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD : HANGING GARDENS OF BABYLON: Vườn treo Babylon (nằm ở Iraq ngày nay)
– ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD: LIGHTHOUSE OF ALEXANDRIA: Hải đăng Alexandria (Ai Cập)
– Lăng Halicarnassus (Thổ Nhĩ Kỳ): ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD: MAUSOLEUM AT HALICARNSSUS
– ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD: PYRAMID OF EGYPT N: Kim tự tháp Ai Cập
– ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD: TEMPLE OF ARTEMIS: Đền thờ Artemis (Thổ Nhĩ Kỳ)
– ZIPPO SEVEN WONDERS OF ANCIENT WORLD: STATUE OF ZEUS: Tượng thần Zeus ở Olympia (Hy Lạp)
10. Set Zippo Pin Up Girl Collection
Đây là 1 trong những dòng Zippo khá phổ biến sau năm 1950s , khi mà miền tây hoang dã đang trở thành khu vực điểm nóng của Hoa Kỳ, khắc họa lại hình ảnh với các cô đào bốc lửa đi cùng các chàng cao bồi. Đây được xem là 1 biểu tượng văn hóa Mỹ khá phồ biến thời bấy giờ . Cũng đã có rất nhiều người nhầm lẫn giữa biểu tượng này và Windy.
Thập niên 1950 chứng kiến sự thống trị của những bức tranh ấn tượng có tên gọi “pin-up” rất phổ biến trong nền văn hoá Pop lúc bấy giờ. Nó là những bức tranh treo tường đầy màu sắc được chuyển thể từ một tác phẩm ảnh đen trắng.
“Pin-up” luôn lấy nhân vật chính là các thiếu nữ sexy gợi cảm. Những cô gái này có thể là người mẫu hoặc diễn viên. Những bức “pin-up” đầu tiên xuất hiện từ thập kỷ 1890. “Pin-up” có thể được cắt ra từ các cuốn báo, tạp chí hoặc thiệp…
Những bức hình như thế còn trở thành hình minh họa trên các cuốn lịch. Tất cả chúng đều để người ta treo lên tường với mục đích trang trí. Ý tưởng này ngay lập tức nhận được thành công lớn, công chúng Mỹ những năm 1950 thế kỷ trước vô cùng yêu thích và hưởng ứng.
Phong cách thống trị trong “pin-up” là sự sexy gợi cảm của thân hình phụ nữ. Thời trang thập niên 1950 chứng kiến cuộc cách tân mới mẻ của phụ nữ với hai hãng thời trang lớn đóng vai trò định hướng cho phong cách của phụ nữ lúc bấy giờ là Chanel và Dior.
Thời kỳ này phụ nữ thích mặc áo phông bó sát, áo ngực nhọn, váy xoè hoặc quần jean bó chẽn. Những ngôi sao nổi tiếng trong thập niên 1950 có Marilyn Monroe, Jayne Mansfield và Kim Novak – những phụ nữ tóc vàng sở hữu những đường cong nóng bỏng, mở ra thời kỳ của những cô gái quyến rũ sexy.
Thập niên 1950 cũng chứng kiến một thời kỳ văn hóa mới được mở ra trong đó các yếu tố về sex trong văn học, điện ảnh, thời trang được đề cập và xuất hiện một cách công khai trước cái nhìn cởi mở của lớp công chúng mới.
Thời kỳ này, Marilyn Monroe là “quả bom tiên phong”, cô phát nổ đầu tiên với những thử nghiệm ở thể loại ảnh nude. Chính sự thử nghiệm táo bạo này đã đưa tên tuổi Marilyn Monroe lên tới đỉnh cao với cái tên quen thuộc “quả bom sex”.
Việc ảnh nude của Marilyn Monroe được tôn sùng và cho là biểu tưởng của cái đẹp thời đại đó đã cho thấy một bầu không khí cởi mở hơn dành cho những đề tài “nóng” – điều hoàn toàn không được chấp nhận trong những thập niên trước đó.
Thập niên 1950 cũng chứng kiến sự ra đời của búp bê Barbie và tạp chí Playboy – hai xu hướng chủ đạo thống trị trong nền văn hoá lúc bấy giờ: hoặc là những cô gái kín đáo, duyên dáng, tề chỉnh như những nàng công chúa mà đại diện là diễn viên Grace Kelly hoặc là những cô gái táo bạo sexy tiêu biểu là Marilyn Monroe.
Nhưng người ta vẫn luôn coi Marilyn Monroe là tên tuổi hàng đầu, đại diện cho một thế hệ diễn viên mới, một nền văn hóa pop mới trong những năm 1950.
Hình tượng Marilyn, hình tượng búp bê Barbie, hình tượng những phụ nữ nóng bỏng… đã trở thành cảm hứng chủ đạo cho dòng tranh “pin-up” những năm 1950 thế kỷ trước tại Mỹ.
Phong cách của “pin-up” đã cho thấy một trào lưu mới của thời đại, những cô búp bê tóc vàng xinh xắn và phong cách sexy hiện đại với ngực “bự”, váy xòe, eo thon đã làm khuynh đảo phụ nữ của cả một thế hệ. Tất cả phụ nữ của thập niên 1950 đều chạy theo phong cách này và cố gắng biến mình thành một phiên bản sống động của những hình mẫu trong tranh.