ZIPPO XƯA 1976-1977 – USS CORAL SEA CV43
- ZIPPO TRONG TÌNH TRẠNG MỚI NGUYÊN HỘP
- SẢN XUẤT NĂM 1976-1977
- MỘC ĐÁY MỜ GẠCH
- CHẤT LIỆU ĐỒNG MẠ CHROME
- HỌA TIẾT ĂN MÒN PHỦ SƠN
- CHỦ ĐỀ TÀU SÂN BAY
8284
3.000.000 ₫
USS Coral Sea (CV/CVB/CVA-43) là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc cuối cùng trong lớp Midway, được đưa ra hoạt động sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt tên theo Trận chiến biển San hô, và được thủy thủ đoàn đặt cái tên lóng “Ageless Warrior“. Nó đã hoạt động tại Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, tham gia Chiến tranh Việt Nam cũng như vụ Khủng hoảng con tin Iran và xung đột với Libya, trước khi được cho ngừng hoạt động vào năm 1990 và được tháo dỡ vào năm 2000.
Theo sau Sự kiện vịnh Bắc bộ vào tháng 8 năm 1964, Coral Sea lên đường vào ngày 7 tháng 12 để phục vụ cùng Đệ Thất hạm đội. Đến ngày 7 tháng 2 năm 1965, máy bay của Coral Sea hợp cùng những chiếc xuất phát từ các tàu sân bay Ranger và Hancock đã tấn công các trại binh và khu vực tập kết quân sự tại Đồng Hới thuộc phía Nam của Bắc Việt Nam. Cuộc không kích này là nhằm trả đũa cuộc tấn công của Việt Cộng vào các căn cứ chung quanh Pleiku ở Nam Việt Nam. Ngày 26 tháng 3, Đệ Thất hạm đội bắt đầu tham gia Chiến dịch Sấm rền (Rolling Thunder), một chuỗi các cuộc ném bom hệ thống vào các mục tiêu quân sự khắp miền Bắc Việt Nam. Phi công của Coral Sea đã nhắm vào các trạm radar gần bờ biển gần Vĩnh Linh. Coral Sea tiếp tục được bố trí cho đến khi quay trở về nhà vào ngày 1 tháng 11 năm 1965.
Coral Sea thực hiện một đợt bố trí khác đến Tây Thái Bình Dương và Việt Nam từ ngày 29 tháng 7 năm 1966 đến ngày 23 tháng 2 năm 1967. Vào mùa Hè năm 1967, thành phố San Francisco chấp nhận con tàu như “thuộc về San Francisco”.[1] Điều này xem ra khôi hài so với tình cảm phản chiến tại vùng vịnh San Francisco, và so với thực tế những gì xảy ra vào Mùa Hè của Tình yêu.[2] Cho dù vậy, thành phố và con tàu vẫn có được mối quan hệ chính thức mang tính hình thức. Có thể nhiều lần thủy thủ đoàn đã không tán đồng thái độ của cư dân vùng vịnh.[1]
Chiếc tàu sân bay liên tục được bố trí hoạt động đến Tây Thái Bình Dương/Việt Nam cho đến năm 1975: từ 26 tháng 7 năm 1967 đến 6 tháng 4 năm 1968; 7 tháng 9năm 1968 đến 15 tháng 4 năm 1969; 23 tháng 9 năm 1969 đến 1 tháng 7 năm 1970; 12 tháng 11 năm 1971 đến 17 tháng 7 năm 1972; 9 tháng 3 đến 8 tháng 11 năm 1973; và từ 5 tháng 12 năm 1974 đến 2 tháng 7 năm 1975. Sau khi được tái trang bị từ năm 1970 đến năm 1971 tại San Diego, trong chuyến đi quay trở lại Alameda, Coral Sea phải chịu đựng một đám cháy tại ngăn thông tin liên lạc. Đám cháy tràn lan nhanh đến mức Đại tá William H. Harris chỉ huy con tàu phải lệnh cặp dọc theo bờ biển ngoài khơi San Mateo và Santa Barbara phòng hờ trường hợp phải bỏ tàu nếu như đám cháy không thể kiểm soát. Cuối cùng đám cháy cũng được dập tắt.
Hoạt động của máy bay Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam được tăng cường đáng kể trong suốt tháng 4 năm 1972 với tổng cộng 4.833 phi vụ của Hải quân tại miền Nam và 1.250 phi vụ khác tại miền Bắc. Coral Sea cùng với Hancock đang thường trực tại trạm Yankee khi cuộc tổng tấn công mùa Xuân của lực lượng Bắc Việt Nam bắt đầu; nên vào đầu tháng 4 có thêm sự tham gia của các tàu sân bay Kitty Hawk và Constellation. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1972, máy bay của Coral Sea, hợp cùng những chiếc xuất phát từ Kitty Hawk và Constellation, đã thực hiện 57 phi vụ bên trên khu vực Hải Phòng hỗ trợ cho những chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52 tấn công các kho dầu tại cảng này trong phạm vi chiến dịch Freedom Porch.
Hết hàng